ÎÃËÀÂËÅÍÈÅ 

 

Năm tháng đi qua - Uông Thái Biểu

Đám tang ông đi trong chiều mưa hiu hắt. Những giọt mưa thoảng qua hư vô đậu trắng xuống chiếc nắp quan tài được phủ kín bằng một tấm ni lông màu đen u uất. Tôi và mẹ tôi bước lững thững cuối cùng. Gọi là đám tang nhưng không một tiếng khóc than như người ta vẫn làm thế  khi có người thân qua đời. Đi trước đoàn người chỉ có ông đã lặng yên trong quan tài và bốn người hàng xóm khiêng ông trên vai cũng bước đi nặng nề, đầu chúi sâu xuống đất. Không một người thân thuộc, xung quanh ông chỉ toàn người xa lạ như từ lâu nay ông đã trở thành một thế giới khác biệt với mọi người. Những xẻng đất lấp vội xuống huyệt, quả trứng bóc trắng xanh hờ hững đặt trên bát cơm lạnh ngắt, nén nhang nửa tắt nửa đỏ trong mưa…

“ Thôi! Thế là hết… - Tôi nghĩ - hết một đời người!…”. Cho đến lúc này tôi mới nghiệm hết cái điều mà thiên hạ vẫn cho là định mệnh, rằng sống chết, sướng khổ trên đời này đều như có sự sắp đặt trước của đấng Hoá Công. Đoàn người lại lặng lẽ trở về như lúc họ ra đi. Tôi biết trong lòng họ mỗi người đang đuôỉ theo một dòng suy nghĩ về người đã khuất. Giữa nghĩa địa hoang vắng, trước nấm đất mới đắp chỉ còn lại hai mẹ con tôi. Tôi vẫn  chưa hiểu câu nói của bà lúc nãy : “ Nam ạ, mẹ con mình nán lại thêm với ông chút nữa!”…

Mẹ tôi quỳ trước vòng hoa quỳ vàng và tấm gỗ sơn dòng chữ tên ông : Lê Mục. Bà rút nén nhang khô ráo cắm lên bia mộ ông, hai dòng nước mắt đã lăn dài trên gò má xanh xao tự lúc nào. Bà nấc lên nghẹn ngào:

-Ông ơi! Đến lúc này thì con không thể lặng thinh với ông được nữa rồi !…Hai mươi bảy năm qua chúng con đã có lỗi với ông. Sống khôn thác thiêng, ông hãy tha thứ cho con và anh ấy, phù hộ cho thằng Nam cháu nội của ông!…Nam ơi! Con hãy quỳ xuống mà lạy ông nội đi con, thay bố con thắp nén nhang cho ông mát lòng, mát dạ!…

Mẹ tôi run rẩy ôm lấy tôi, giọng nói ngắt quãng trong tiếng nấc. Tôi bàng hoàng như sét đánh trước cú sốc bất ngờ. Hai mắt tối sầm, toàn thân run rẩy chơi vơi trong cảm giác không trọng lượng. Tôi khuỵu xuống, hai tay chắp trước ngực đờ đẫn. Mẹ tôi vẫn nói như gió thoảng mơ hồ bên tai…

-Mẹ định tâm sẽ giấu con cho đến khi nhắm mắt nhưng nhìn nấm mồ lạnh lẽo của ông nội con mẹ không thể đành lòng…Nam ơi! Con chính là đứa trẻ bất hạnh , côi cút, con trai của liệt sĩ Lê Hồng Bình, cháu nội ông lão Mục. Thế mà…thế mà từ trước đến nay người ta vẫn nhầm tưởng rằng con còn bố, tưởng rằng con là dòng giống họ Trần…

                                                             * * *

Cho đến lúc này tôi vẫn chưa biết vào truyện từ đoạn nào và có nên kể lại nữa không khi nhân vật chính đã không còn nữa. Người vừa nằm xuống đất chính là ông nội tôi, vậy mà hai mươi bảy năm qua tôi nào có biết! Con người ấy từ trước đến nay dân làng (trong đó có tôi) vẫn quen gọi là lão Mục điên ngoài bãi. Trời ơi! Cho đến trước lúc mẹ tôi tỏ tường sự thật tôi vẫn cứ nghĩ rằng mình đang đưa đám một người làng xấu số, một kẻ điên dại mạt vận, không con cái, không họ hàng thân thích. Đám tang ông cũng chỉ là một sự trùng lặp ngẫu nhiên với những ngày nghỉ phép của tôi. Tự dưng, tất cả ký ức cùng một lúc trở về và giày xéo tâm can tôi như muối xát. Ông ơi! Hai mươi bảy năm qua cháu đã sống một phần đời nhầm lẫn, nhầm lẫn cả tên gọi và dòng máu của mình !…

                                                                 * * *

Hồi đó tôi lên bảy, tuổi lên bảy của tôi không hiểu sao mà đã phải gánh vác cả những phần việc khá nặng nhọc. Ở lứa tuổi bắt đầu hình thành nhận thức, tôi cảm nhận gia đình nội luôn nhìn tôi với con mắt ghẻ lạnh, ác cảm. Ông nội giữ chức chủ tịch xã hầu như suốt ngày ở trụ sở. Bố tôi ( cứ tạm gọi như thế) là một người buôn bè gỗ đường dài, quanh năm suốt tháng rong ruổi với núi rừng, sông nước. Mỗi lần ông về nhà là ngồi lì uống rượu, uống say mèm rồi kiếm chuyện đay nghiến và túm gáy mẹ con tôi đánh như xé giẻ. Mẹ tôi chỉ biết khóc và cũng chỉ âm thầm mà khóc. Còn tôi thì thảng thốt vì phải nghe những lời nguyền rủa từ miệng bố : “ Đồ chết giẫm! Cái đồ con hoang !…”. Càng lớn lên trong gia cảnh đó tôi như càng chai lì thêm bằng sự mặc cảm và thói quen nhịn nhục. Lúc sung sướng nhất ấy là đóng thừng con trâu đực cùng bạn bè giong ra bãi Lảng. Bãi Lảng bên bờ sông, nơi lý tưởng để tập trận giả và ngụp lặn. Một hấp dẫn nữa đối với chúng tôi là được ăn khoai luộc với tôm càng của ông lão Mục . Ông lão Mục là dân làng Lịch Thượng, nhà ông cách nhà tôi mấy ngõ. Bà lão mất từ lâu lắm rồi, ông lão chỉ có một người con duy nhất là chú Bình  đang đánh giặc ở tận trong Nam. Từ hồi chú Bình đi bộ đội, tức là lúc tôi chưa ra đời, lão Mục đã ở ngoài bãi Lảng. Dân làng có hỏi thì lão bảo là ở với tôm cá cho vui. Xung quanh túp lều lão Mục cắm dày đăng đó và lưới bắt cá. Thỉnh thoảng lão ghé về làng thăm lối xóm, thắp nén nhang lên bàn thờ bà cụ rồi lại trở ra với túp lều ngoài bãi…Có chúng tôi lão Mục vui lắm. Vừa ăn khoai chúng tôi vừa khoái chí nghe lão Mục kể chuyện hồi đánh Tây, chao ôi, lão đã từng là anh Mục vệ quốc quân đứng trên nóc hầm Đờ- cát cơ đấy !…

Cho đến một hôm, cái hôm đó thì cả làng đều nhớ. Buổi sáng có ông cán bộ trên huyện về, ông về được một lúc thì làng nước nhao lên : Thằng Bình con lão Mục đã đầu hàng giặc! Thằng Bình đã phản bội!… Ông nội tôi vốn đứng đầu xã thì đạp xe đi rao như một tin mừng. Tôi còn nhớ cả ngày hôm đó mắt mẹ tôi đỏ hoe, buổi tối ấy bà nằm lì trong buồng không dậy ăn cơm…

Từ đó, lũ trẻ bị ông bà, cha mẹ cấm chăn trăn trâu bãi Lảng, cấm giao du với lão Mục. Người lớn lườm túp lều chửi đổng : “Đồ phản động! Mẹ của gà ác thì cũng loài gà đen !…” Lão Mục bị dân làng coi như đồ hủi, một kẻ lạc loài sống giữa cộng đồng. Ngôi nhà trong xóm cỏ mọc um tùm, lão không dám về thăm sợ phải hứng chịu những câu mỉa mai, nguyền rủa của thiên hạ. Có đứa trong đám trẻ ăn khoai nhà lão Mục hôm trước, hôm nay đã bắt chước giọng người lớn cong môi : “ Xem kìa ! Cái lão già cha của thằng phản bội…” Lão Mục chỉ biết câm lặng ngắm dòng sông nước xiết. Đêm đêm thắp một nén nhang ra ngoài nghĩa địa ngồi lì bên mộ vợ. Có người nhìn thấy lão dật dờ trong sương sớm giữa bãi tha ma…

Bẵng đi rất lâu, khi mà người đã quên trên đời này có một lão Mục thì lão xuất hiện. Trước mắt chúng tôi không còn là ông lão Mục hiền lành dạo nọ nữa mà đã là một người điên. Cả lũ đang chơi khăng giữa đường giật mình ù té chạy, nấp vào lùm cây kín ngó trộm. Người lớn đổ ra hàng rào. Lão Mục đã trở thành con ma. Tóc trên đầu lão rối bù, tết từng mảng dài thọt rủ xuống khuôn mặt hốc hác, những chỏm xương trồi ra đẩy lùi hai hốc mắt vào sâu trắng đục, lờ đờ. Áo quần lão chỉ còn là mớ giẻ rách quấn lòng thòng quanh tấm thân tàn tạ. Vung cây gậy tre làm nhịp, lão vừa giẫm thình thịch giữa đường làng vừa nghêu ngao hát như đang tập đi đều :

     -Một… hai… ba… A ha…! Đi đầu quân, đi trong mùa động viên. Đi đầu quân đi trong mùa xuân mới… Gió  lá reo… Nghiêm ! Báo cáo đội trưởng, cho tôi xin cái lô cốt đầu cầu…Chết mẹ mày cái thằng mũi lõ…- Lão vừa hét vừa vung cây gậy lên như nhắm bắn thiệt – Oằm !… Oằm!…

Lũ trẻ con thích thú cười ré lên. Các bà quát tháo ầm ỹ đuổi con cháu vào nhà. Có kẻ ác miệng rủa to một câu  : “ Điên là phải ! Đáng kiếp cái nòi Việt gian !” Mẹ tôi nhủ khẽ sau lưng : “Về đi con!” Kìa! Lão Mục đang đứng trước ngôi nhà nát của mình. Mắt lão sáng lên như đang vui lắm. Bắc tay lên miệng lão gọi to :

      -Mẹ nó ơi ! Tôi về đây này…Thằng Bình ơi ! Bố về đây con …Tôi tranh thủ về mấy ngày rồi còn đi chiến dịch…Hòa bình bố về luôn với con Bình nhé !…Ơ hay, đi đâu mà nhà vắng tanh vắng ngắt thế này ? !…

-Theo địch rồi  chứ còn đi đâu ! – Ông nội tôi từ trụ sở về vòng xe vô ngõ làm một câu lạnh tanh chông hổng. Mắt lão Mục tối sầm, rồi lập tức quắc  lên rất lạ. Lão hét to : “Theo địch hả ? Đứa nào theo địch? Đứa nào ?…”- Lão vung gậy lên, môi run run :

     -Giết chết tên phản quốc hèn mạt ! A… mày hả thằng Bình ? Tao…tao giết mày làm gương cho kẻ khác. Theo tầm cây gậy mắt lão chạm phải tán cây ổi trước nhà. Lão sững sờ. Cây ổi nhà lão Mục trái chín vàng rụng xuống cả gốc vậy mà chúng tôi không dám hái như trước, sợ “ ăn phải bả Việt gian”. Lão Mục nheo mắt: -“Bình hả con, trèo khéo ngã đấy ! Ừ, hái cho mẹ mày cái trái chín chỗ kia… Con của bố ngoan qúa!…” “Không ! - Lão hét lên - Thằng Bình không phải đứa hư, con của tao không phải thằng phản bội hèn mạt !… Bình ơi !…”- Lão nấc lên, toàn thân run rẩy, khuỵu cả người xuống một cách bất lực…

Lão Mục lại đi, cái cọc tre vung vẩy suốt dọc đường làng, vẫn nghêu ngao khúc hát thủơ xa xưa của lão. “ Đi đầu quân, đi trong mùa động viên. Đi đầu quân… Một...Hai...Ba…” Một con chó chạy ngang, lão vung gậy “ Hô-lê-manh !” Con chó khiếp vía chạy vào vườn. Bà Nhiêu Là tru tréo : “Đồ điên, đồ phản động lại còn dám chọc cả chó nhà bà !”

                                                              * *   *

Trần Vu, con trai độc nhất của ông chủ tịch xã không còn khả năng sinh sản. Sự thật ấy hình như chỉ có ba người biết, ngoài y là ông bố đẻ và người vợ của y. Vu vốn là tay đàng điếm, phóng đãng, những cuộc truy hoan đổi chác giữa tiền bạc và xác thịt đã làm tiệt nọc cái khả năng kiếm giống cho dòng dõi họ Trần. Cưới cô Sen về, với sự tính toán ngầm của nhà giàu, bố con Vu cần một phụ nữ đảm đang, biết làm ra của hơn là một giống cái sinh sản. Những cuộc ân ái bất lực với Sen đã tạo cho y cảm giác hờ hững, ghẻ lạnh với vợ. Sen sống trong sự hụt hẫng, trống vắng trước người đàn ông đó, lò lửa cháy bỏng của tuổi mười tám tưởng chừng như lụi tàn nhanh chóng trong những trận mưa nước mắt khổ đau…

Nước lũ nguồn đổ về chảy xiết. Có những chỗ nước réo sùng sục và tạo nên vực xoáy sâu hỏm, vô phúc bị cuốn trôi vào đó rất dễ về làm nô tỳ của Diêm Vương. Chiếc thuyền thúng của Sen chở hai bó cỏ lác nặng như muốn chìm nghỉm, cô khó nhọc hất mạnh mái chèo, lừa con thuyền chao lệch dòng nước. Chỉ dăm sải tay là thuyền sẽ đụng bờ, bỗng “ rắc” một tiếng , mái chèo gãy hẫng trong tay Sen. Con thuyền nhỏ bất lực trước sức đẩy mãnh liệt của dòng chảy. Thuyền chao nghiêng ngửa, nước trào vào ào ào và nhận thuyền xuống sâu. Thuyền nan tre nên không chìm hẳn, Sen bám chặt vào vành thuyền, tiếng kêu của cô vọng trên mặt sông mơ hồ trong tuyệt vọng: “Cứu…tôi… với…với !…”

Chưa kịp bắt con cá chép vùng vẫy trên tay, Bình quăng vội tay lưới, anh vụt thuyền theo tiếng kêu thảng thốt từ dòng sông lớn. Con nước gầm gào cuốn phăng phăng những đám bèo tây, rác cỏ. Khó khăn lắm anh mới nhận ra đầu tóc dật dờ của người con gái đang bị xô đi đẩy lại cùng con thuyền chìm trên sóng .Vốn là tay thạo nghề sông nước, mái chèo của chàng trai hăm hai khéo léo đẩy con thuyền theo ý của mình. Vài giây sau, cô gái đã nằm sóng sượt giữa lòng thuyền. Cập bờ anh hàng xóm bế Sen lên và với tất cả kinh nghiệm không mấy lúc sau Sen đã tỉnh lại. Chưa hết bàng hoàng, cô vợ Trần Vu đã nhận ra Bình, con trai ông lão Mục, cô nở một nụ cười mệt nhọc nhưng đầy sự hàm ơn. Cô nhắm nghiền mắt lại, vẫn nằm trong vòng tay của Bình. Lần đầu tiên chạm đến thân thể đàn bà, toàn thân anh run lên, nổi gai ốc. Da thịt Sen nóng dần lên, Bình ngượng ngùng có ý buông lơi ra. Song Sen như níu kéo, mời mọc, cô áp cả bộ ngực nóng hổi lên người anh, cô cũng run rẩy. Phía tây mặt trời đã khuất. Làng Lịch Thượng hiện lên mờ mờ trong làn sương hoàng hôn. Thảm cỏ xanh bên dòng sông chưa hết gầm gào trong buổi chiều hôm đó đã được chứng kiến một cơn bão ái ân cuồng nhiệt, giữa chàng trai lần đầu biết đến yêu đương và thiếu phụ vốn chứa trong lòng lò lửa tưởng như đã lụi tàn…Mấy tháng sau, tự nhiên chàng trai ấy, Lê Hồng Bình, xin phép cha già nhập ngũ và vào Nam chiến đấu. Sen lại càng lầm lũi, âm thầm giữa nhà chồng. Bố con Trần Vu ban đầu ngờ ngỡ và sau đó lại gầm gừ, hằn học. Nhưng dù sao, đứa bé, kết qủa của cuộc ái ân cuồng nhiệt vụng trộm cũng ra đời. Sinh ra trong nhà họ Trần, nó được mang danh tính “ đích tôn” của họ Trần, bởi lẽ hồi đó con dâu ông chủ tịch xã không thể là đứa “trên dâu, dưới bộc”…

                                                                   * * *

Lão Mục đã trở thành một người điên thực sự. Bất di bất dịch trong hành trang của lão là cây gậy tre làm súng, manh chiếu rách và một chiếc bị cói đựng hổ lốn, của quý nhất là chiếc áo tứ thân cũ kỹ của bà lão qúa cố và tấm hình hồi nhỏ của chú Bình . Đêm, sẵn đâu lão nằm đấy. Ngày, lão ngồi giữa chợ, sống bằng tấm bánh, củ khoai bố thí. Có kẻ thương hại mong lão chết cho đỡ khổ thân lão. Người ác tâm thì cảnh giác: “Không khéo lão trá thân để làm Việt gian chống phá Chủ nghĩa xã hội”. Sắp đến ngày giải phóng vẫn có những chuyện thêu dệt về “tên phản quốc Lê Hồng Bình”. Rằng “hắn đã lên chức đại tá ngụy”, rằng “ hắn đã bị quân ta giết chết ở thành cổ Quảng Trị năm 1972”, rằng…

Giải phóng đâu vài tháng thì tại làng tôi lại xảy ra một sự kiện nhớ đời. Sáng hôm ấy,  một chiếc  com-măng –ca chạy vào trụ sở xã, năm phút sau quay trở ngược, trên xe có thêm ông chủ tịch xã cũng là người thuộc cánh họ Trần. Xe rẽ vào cổng chợ trong buổi đông người. Hằng trăm con mắt đổ dồn vào chú bộ đội mang quân hàm thiếu tá vừa bước xuống. Chú bước như chạy về phía lão Mục đang gục đầu trên manh chiếu rách. Chú bộ đội ôm lấy vai lão, nghẹn ngào :

-Bố ơi ! Sao đến nông nỗi này hở bố ! ?…

Nghe tiếng  “bố”, lão Mục như  sực tỉnh , mở hai mắt ngơ ngác, môi lão run run :

  -Bình hở con ? Có phải thằng Bình của bố không ?…  - Bỗng dưng mắt của lão khờ dại đi  -      Không ! Không !… Cút ! Thằng Bình chết rồi !… Đồ …  đồ hèn nhát ! Đồ phản bội !  – Lão đẩy chú bộ đội ra. Chú thiếu tá đầm đìa nước mắt :

 -Bố ơi ! Con là Thăng, đồng đội của Bình đây ! Thằng Bình nó không phản bội, không hèn nhát đâu, nó đã hy sinh anh dũng từ năm 1967…

Đại đội của Bình  và Thăng được lệnh lên mặt trận  độc lập luồn sâu vào lòng địch. Sau những trận đánh ác liệt ven đô thị, đơn vị hành quân ngược lên vùng núi phía nam Tây Nguyên, gây dựng lực lượng ở vùng  đồng bào dân cư người Thượng . Đại đội ém mình bí mật trong rừng sâu, Bình và Thăng được cử đi điều nghiên, gặp gỡ đồng bào trước. Không ngờ lần đi ấy bị địch phục kích, Bình bị thương nặng. Nằm trên vai Thăng nửa buổi đường anh hoàn toàn kiệt sức. Trước khi nhắm mắt, Bình thều thào : “Mày còn sống trở về thì ghé thăm bố tao là ông lão Mục ở làng Lịch Thượng, ghé thăm Se…”. Chưa kịp nói hết câu anh đã gục xuống, đầu nghẽo bên vai Thăng. Chôn bạn xong, Thăng khắc tên người bạn đã khuất  và quê hương lên thân cây pơ-mu. Trên đường tìm về đơn vị Thăng bị lạc, không còn cách nào khác anh đã vào xin sống với đồng bào một buôn Kơho,  anh tự tập hợp du kích chiến đấu. Sau đó, đội du kích của Thăng được nhập vào một cánh quân chủ lực phía nam Trường Sơn chiến đấu đến ngày giải phóng…

Thì ra, ngày đó một toán biệt kích ngụy  quân đã vô tình đọc được tên tuổi  và quê quán của người  hy sinh trên cây pơ-mu. Mọi người kinh ngạc và uất hận khi truyền đơn và đài địch ra rả: “ Hỡi anh em cán binh Việt Cộng! Đồng đội của các anh là Lê Hồng Bình, quê quán…đơn vị…đã quy phục chính nghĩa quốc gia. Chúng tôi đã biết rõ nơi ém quân của các anh. Khôn hồn thì rút lui, nếu không sẽ bỏ mạng!…” Bình phản bội, Thăng mất tích, đại đội phải hành quân đến địa điểm mới để bảo toàn lực lượng và dòng điện tín về cấp trên đã được chuyển dần ra hậu phương lớn, về thấu làng Lịch Thượng…

Đoàn thanh niên thôn Lịch Thượng đã sửa sang lại ngôi nhà của liệt sĩ Lê Hồng Bình. Trên bàn thờ bên bài vị của bà lão Mục đã có thêm bát nhang mới cùng tấm bằng Tổ quốc ghi công. Song, với lão Mục tất cả mọi sự nhìn nhận và phục hồi đều đã trở thành vô nghĩa. Bởi lẽ, trong tâm thần ổn định trước khi từ giã một phần đời tỉnh táo, thằng Bình trong lão chỉ là thằng Bình trèo ổi ngày xưa hay là một tên phản phúc làm ô nhục cho dòng họ Lê. Những giấy má, bằng chứng và cả sự hối hận bằng hành động của người tỉnh táo không thể nào đánh thức được lão nữa, không nghĩa lý gì với người điên trong lão. Lão vẫn ngồi nằm bên xó chợ, vẫn sống bằng miếng quà, tấm bánh của kẻ bán người mua. Lúc nào hứng, thường là những lần chú Thăng về thăm, hai bố con dắt nhau ra bãi Lảng thắp hương cho bà lão, về ngôi nhà trong làng cúng viếng chú Bình.  Cho đến những ngày gần đây, lão Mục đã trở về bãi Lảng một mình. Một hai ngày không thấy bóng lão, mọi người đổ đi tìm. Khi người ta tìm ra thì lão chỉ còn là một tấm thân lạnh ngắt, co quắp. Bên người lão vẫn là tấm hình chú Bình thời còn nhỏ và chiếc áo tứ thân cũ kỹ của bà lão ngày xưa…

 

ÎÃËÀÂËÅÍÈÅ 
Hosted by uCoz