ОГЛАВЛЕНИЕ
Truyện không tên" - Bùi Ngọc Tấn
Chị Sợi cho rằng tất cả mọi người trong ngõ ánh Hồng đều biết rõ công
việc của chị. Chị chấp nhận điều ấy. Với chị đó cũng là một
nghề, một nghề như
những nghề khác dù nó bị mọi người khinh bỉ. Dào ôi. Ai khinh thì cứ
việc. Chị
có cần người ta trọng đâu. Chị cần tiền. Để nuôi bà mẹ già nằm liệt sáu bảy năm
nay. Để có cái và vào miệng. Để có tí phấn son bôi lên
mặt, giấu đi làn da đen
đủi nhăn nheo, cặp môi tái nhợt của mình. Để có thể mua một bộ cánh mới khi bộ
cánh chị mặc trên người đã mòn, sờn, bạc, khiến chẳng còn ai muốn nhìn
chị.
Chị còn cần tiền để phòng khi mẹ chị nằm
xuống. ít nhất cũng
phải có bộ áo quan. Chị đã dành dụm mua được mấy tấm gỗ cốp
pha, đã nhờ người
cưa cắt sẵn nhưng chưa ghép mộng, mấy mét vải diềm bâu để liệm cho
cụ. Tất cả
cất trên gác lửng. Cả vải. Cả gỗ. Không thể để dưới gầm giường. ở đó phân
gio,
nước giải của mẹ chị nằm ốm liệt giường hôi thối
lắm.
Chị cũng đã tích được một ít
tiền, cứ định sẽ không bao giờ đụng
đến, nhưng rồi vẫn cứ phải lấy ra tiêu. Bởi vì có khi cả tuần lễ không bán được
hàng, lại chẳng có một người khách nào đến nhà chị.
Chị Sợi có một mẹt hàng bán các thứ linh tinh ở đầu
hẻm: ấm nước
chè, gói thuốc lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích quy. Mùa nóng chị bán
cả bia hơi. Khổ nỗi là chị chẳng thể nào cạnh tranh nổi với các hàng quán san
sát gần đó. Họ có lều quán. Họ có cái bán mái nhô ra. Họ có cả căn nhà mặt tiền
của họ. Hàng của họ trông vui mắt, sạch sẽ, sang
trọng, nhiều loại, mới tinh,
đầy vẻ mời chào. Chứ không như hàng của chị. Vạ ra vỉa hè thì
chớ. Lại còn bụi bậm, bạc phếch, cũ kỹ. Không biết bao Vinataba của chị bóc bán được chưa mà vỏ
bao đã nhợt ra hết cả.
Để làm bớt đi vẻ nghèo nàn tiều tụy của mẹt hàng, chị Sợi đã
ngồi lảnh ra một nơi, cách xa cái đám phồn hoa kia. Khách của chị cũng muốn như
thế.
Đó là những người ăn xin. Vâng. Những người ăn mày là khách hàng
chủ yếu của chị. Những người này cũng muốn có một lúc dừng chân sau khi đã rạc
cẳng trên các vỉa hè. Những người này cũng muốn trở lại làm người, cất đi trong
chốc lát bộ mặt nhăn nhó đau khổ của mình khi đi ăn xin. Họ cũng muốn chuyện trò
đôi câu một cách bình đẳng ngang hàng với những người không phải là ăn xin như
họ. Họ cũng muốn ăn một cái bánh bích quy, cũng muốn lấy cái điếu cày của chị
kéo một hơi cho đã, rồi chiêu một ngụm nước chè trước nụ cười tán thưởng của
chị. Sang hơn thì làm một điếu Vinataba. Để rồi lại đi.
Chị Sợi quen rất nhiều ăn mày. Chị biết có những người đi ăn mày
để có tiền bó cái bậc hè. Để láng nốt góc sân còn dở dang. Để thêm vào xây cái
bể. Chị biết có những người ăn xin vì không muốn làm nghề gì khác. Nhiều người
trong số họ là những người tình chốc lát của chị. Cô điếm già,
xấu, nhăn nheo,
gầy gò còn có thể có khách nào ngoài đám ăn mày.
Người ta đi tới, ngồi xuống, uống chén nước chị rót và khẽ nháy
mắt, hất hàm về phía trong hẻm. Chị khẽ gật. Người ấy đi. Đi thẳng hè phố để rồi
lát nữa mới quay lại. Chị Sợi thu xếp tất cả hàng họ vào thúng, bưng về nhà, đổ
chậu phân nước giải dưới gầm giường bà mẹ, rồi đi tắm rửa bằng xà phòng thơm,
lại còn xịt vào người, xịt vào giường bà mẹ, xịt lên gác lửng tí nước hoa rẻ
tiền, kéo tấm ri đô che khuất một phía chiếc giường có người mẹ đang nằm khô như
một cái xác nặng mùi hôi thối tỏa ra.
Chị đã làm mọi cách để mẹ chị luôn trong trạng thái sạch sẽ
nhất. Chị khoét chiếu, khoét giát giường đặt chậu bên dưới. Quần của
cụ, chị cắt
khâu lấy mà không một hãng thời trang nào có thể nghĩ ra. Nó chỉ có một mảnh vải
ở đằng trước che kín bụng và dính vào hai ống.
Tuy vậy cũng chẳng thể nào tránh được mùi hôi. Cũng
may, người
khách mới đến có thể nghĩ rằng đó không phải là mùi trong nhà
chị. Bởi vì ngay
trước nhà chị, phía bên kia con hẻm là một cái nhà xí công
cộng. Nó dài đến non
chục mét, phân, nước giải, nước mưa ngập ngụa ra đến sát
hẻm. Mùi nó còn nặng
hơn nhiều, nhất là những hôm có gió mạnh.
Nhờ cái nhà xí công cộng mà chị Sợi cảm thấy yên tâm khi có
khách. Thứ nhất là vấn đề mùi như đã nói. Thứ hai, có nó nên không có những nhà
bên kia đường hau háu nhìn sang. Cả một quãng dài, chỉ có một cánh cổng duy nhất
là nhà chị. Những nhà liền bên, phía trong và phía ngoài đều xây tường cao, tìm
mọi cách quay ngõ ra hướng khác. Quãng hẻm nhà chị thật vắng vẻ. Thảng hoặc ai
có việc đi qua đấy, đều nín thở cắm mặt bước cho nhanh.
Từ vỉa hè phố chính, chị bưng thúng hàng về, mở khóa cổng nhà
chị trong cái hẻm không một bóng người và người bạn tình tới sau cũng vậy. Anh
ta chỉ khẽ đẩy cánh cổng gỗ, bước vào rất nhanh và cũng rất nhanh khép cánh cổng
gỗ lại, chị chỉ việc đi ra, cài chốt cửa, thì thầm: "Vào đi, vào đi". Thế là
xong. Yên tâm. Chắc chắn chẳng một ai nhìn thấy. Chị không xấu hổ. Nhưng chị sợ.
Chị sợ người ta sẽ xúc chị xuống trại 26 là trại cải tạo gái điếm và nếu vậy thì
mẹ chị ai trông? Vì tuy rằng chị là điếm thật nhưng có như những cô điếm khác
đâu. Họ trẻ trung, xinh đẹp, đắt khách, sang trọng, hái ra tiền. Khách đến nhà
chị năm thì mười họa, lại là thứ khách mạt hạng, tiền kiếm được cho mỗi lần đi
khách của chị có đáng là bao! Cho nên những người không biết thì ái ngại cho chị
về cái nhà xí công cộng mênh mông trước cửa, còn chị, chị cám ơn nó. Và chị đâm
lo khi nghe mong manh rằng đang có chủ trương phá đi cái nhà xí ấy. Chị còn nghe
nói hai hộ làm ăn gì đó một ở phường, một ở quận sẽ chia đôi khu đất ấy, làm nhà
tầng ở đó. Thật nguy. Chị sẽ bị dồn vào bước đường cùng. Sống bằng gì? Làm ăn ra
sao khi đối diện với nhà chị là hai gia đình lúc nào cũng người ra người vào tấp
nập? Rồi chị lại tự nhủ. Thôi, ngày nào biết ngày ấy. Phải hết sức tằn tiện.
Tương lai còn khó khăn. Thế này là tốt lắm rồi. Được đến đâu hay đến đó. Biết
đâu mà lo trước.
Thực ra chị Sợi có chi tiêu một khoản nào gọi là hoang phí đâu.
Cứ gọi là những khoản bất hợp pháp cũng không. Làm hôm nay nhưng luôn nghĩ tới
ngày mai. Ngay trong một năm cũng có hai đợt ế khách. Trừ dịp Tết ra không kể,
cứ đến ngày mùa là thành phố vắng bóng ăn mày. Họ trở về quê hương, gặt rồi cấy
hái. Chỉ đến lúc nông nhàn, họ mới rời làng ra đi. Quãng thời gian ấy chị sống
chỉ bằng cái mẹt hàng, bán cho những chú bé đánh giày hay những khách bộ hành đi
ngang qua. Nên bí lắm chị mới rút từ số tiền dành dụm được ra một ít để chi
tiêu.
Thế giới của chị Sợi là thế giới ăn mày nên chị rất hiểu họ. Có
ông ăn mày giả làm người tỉnh T, chị bảo không phải. Người ở đây thôi. Người
tỉnh T, không nói giọng ấy, có muốn nghe tiếng vùng T không, tôi nói cho mà
nghe. Lại còn anh nói lỡ độ đường. Chị bảo đừng nói thế. Cứ nói là đi ăn xin. Lỡ
độ đường gì mà hôm nào cũng lỡ độ đường. Xấu gì chuyện phải đi ăn xin. Ăn mày là
ai, ăn mày là ta... Nghe chuyện chị, những người ăn mày ngồi chung quanh cái
thúng của chị thấy tự tin hơn. Họ cởi mở cùng chị, quý chị rồi dần dần đi cùng
chị từ vỉa hè phố chính vào nhà chị trong ngõ thối.
Trong số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quý một anh
ăn mày trẻ, còn ít tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái
làng chơi.
Chị có thể nói thật với anh tất cả. Ví như khi hai người đã đi
qua bức ri đô che cái giường có bà cụ già nằm giả cách ngủ, trèo lên gác lửng và
khi anh đã nắm tay chị, chị bảo:
- Anh có tiền đưa em vài đồng, em ra ngoài kia ăn cái gì tí đã.
Em chưa ăn. Đói quá.
Anh đưa tiền ngay. Bởi vì chính anh đã khuyên chị tuyệt đối
không đụng đến số tiền dành lo ma chay cho cụ. Để anh một mình trên gác lửng,
chị cầm tiền anh đưa, mở cổng đi. Một lát sau chị về mang theo cho anh một cái
bánh mì và một bát gân bò cùng với bạc nhạc hầm, gọi là món nhừ.
- Anh ăn đi. Hôm nay họ nấu hơi mặn, nhưng ngon lắm. Em ăn hai
suất. Húc như cẩu.
Sau khi yêu nhau bên những tấm ván quan tài còn để mộc và chưa
ghép mộng, bao giờ anh cũng nán lại trò chuyện, hỏi chị về diễn biến bệnh tật
của bà cụ, công việc của chị, còn chị thì ngắm nghía cái chân khoèo của anh, cái
chân mà chị biết rằng trước đây nó cũng lành lặn, bình thường như cái chân bên
kia, chỉ vì giả què lâu quá, nên đã thành què thật. Anh đã kể cho chị nghe
chuyện chân anh. Còn chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị ngã gẫy xương hông,
nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm nay cụ yên lặng. Mỗi
khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ. Anh thương chị.
Chị thương anh. Chính anh đã mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt mộng mấy
tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù què một chân
cũng đã bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch pa panh tường bao cho nó cao
thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.
Người thứ hai chị Sợi yêu quý là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ
Mít. Đó là một bà già thấp bé, lại còng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao
nhiêu tuổi nữa. Chính bà Mít cũng không biết mình bao nhiêu tuổi.
Hôm ấy, chị dọn hàng, ngồi từ sáng đến trưa mà chẳng bán được
một hào. Vét hết tiền trong người mua được một bát cơm, một bát canh suông định
ăn thì bà Mít đến chìa tay xin. Đang cầm đũa, chị hạ xuống, thành thật:
- Bà ơi! Con không còn một hào nào trong người. Có ít tiền lẻ
mang đi để trả lại cho khách, mua được bát cơm, bát canh này đây, bà ăn đi.
Bà ăn mày toan bước đi tiếp. Nhưng chị Sợi đã kéo tay
bà:
- Bà ngồi xuống đây. Bà ăn đi. Con mời bà thật đấy.
Bà cụ ăn. Thế là từ đấy quen nhau. Thỉnh thoảng trên đường đi ăn
xin, bà lại ghé qua chỗ chị. Bà móc trong bị ra khi quả chuối, khi quả cam, lúc
nắm xôi và kể lai lịch những món ăn sang trọng ấy của bà. Ai cho. Ai thương
người. Ai xởi lởi. Ai xua đuổi. Nhà nào làm giỗ, cho bà cả bát miến thừa mà
không mang về đây được. Bà cũng kể cho chị biết vì sao bà phải đi ăn xin. Bà ở
vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong
làng đi ăn trộm lợn. án xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người con
dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy
tuổi.
- Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm
nữa, chúng nó lớn khôn là tôi không lo gì nữa. Tôi có chết cũng không ân
hận.
Một lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:
- Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.
Bà ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện gì. Nhưng rõ ràng là
một việc hệ trọng, rất hệ trọng đối với bà.
- Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.
Thì ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai
đứa cháu côi cút của bà ở quê. Chúng còn bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà.
Chúng cần tiền của bà. Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được,
chưa thể tự lo liệu được. Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc
cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải
mang tiền về quê. Bà nói với chị rằng bà cũng muốn về quê lắm để được nhìn mặt
chúng nó. Để nằm ngủ với chúng. Để bà ôm chúng. Để chúng ôm bà. Để nấu một bữa
cơm nóng, bà cháu ngồi ăn, đơm đơm xới xới. Để tắm rửa giặt giũ cho chúng nó. Để
xem hai chị em có quấn túm thương yêu bảo ban nhau mà sống khi bà vắng nhà
không. Về quê sung sướng là thế nhưng lại tốn kém, mất ngày mất buổi, ảnh hưởng
tới số tiền kiếm được.
- Thoạt đầu tôi lo nên cứ phải về nhà luôn, chứ bây giờ cũng đỡ
rồi. Nghe chừng chị em cũng biết thân biết phận, thương yêu nhau. Bà con xóm
làng cũng thương, qua lại trông nom bảo ban. Tôi cũng yên lòng. Với lại còn khỏe
ngày nào phải cố ngày ấy cô ạ. Chứ tôi nghe trong người tôi biết, sức cạn lắm
rồi. Ngộ nhỡ nằm đấy thì khổ cả bà, cả cháu.
Bà bật cười:
- Cháu cô còn biết cuốc vườn, trồng rau, lại nuôi được một con
gà mái đẻ. Chuyến trước tôi về cứ nhất định luộc trứng cho bà ăn.
Chị Sợi nhận những đồng tiền bà gửi. Những đồng tiền giống những
đồng tiền chị nhận từ tay những vị khách ăn mày của chị: Nhàu nát quăn
queo bẩn thỉu, rồi loại tiền hai trăm, ba trăm, họa hoằn lắm mới có tờ giấy một
nghìn. Những tờ giấy bạc không biết đã qua tay bao nhiêu người đã bạc thếch,
thẫm đen, đẫm mồ hôi, mỡ và ghét bẩn, nhưng nó vẫn là tiền, là mồ hôi nước mắt,
là cuộc sống. Chị nắm chặt tay bà:
- Bà yên tâm. Tiền bà gửi con không suy suyển một xu.
Bà Mít rân rấn:
- Cô phúc đức quá. Cầu trời Phật phù hộ độ trì cho cô.
Chính chị Sợi chảy nước mắt. Vì cảnh ngộ của bà. Vì hai đứa bé
gái mồ côi ở một nơi xa mà chị chưa hề biết mặt. Chị chảy nước mắt vì đây là tất
cả niềm tin to lớn của ba con người còn khốn khổ hơn cả chị đặt vào nơi chị
khiến chị tự hào và trách nhiệm của chị thấy nặng nề. Chị không có quyền phụ
lòng tin cao cả ấy.
Chị Sợi đã quen với những món tiền bà cụ Mít gửi, với nét
mặt tin cậy pha lẫn biết ơn, sung sướng của bà cụ ăn mày già khi bà trao tiền
cho chị, những món tiền nhỏ nhoi, khi hai chục nghìn, khi ba chục nghìn, nhưng
cộm lên to tướng vì mệnh giá của đồng tiền quá nhỏ. Bà cụ cũng đã mấy lần đếm
tiền về quê, lo lắng vì sợ bị mất cắp khi trở về và sung sướng khi từ chỗ hai
đứa cháu ra thành phố.
Bởi vậy chị thật sự xúc động khi một lần bà Mít đến và lôi từ
trong bị ra không phải tiền mà là một xếp giấy xi-măng đã được giặt sạch
sẽ, phơi khô. Và mấy ngày sau lại thêm bốn cái túi đựng bánh kẹo bằng ni-lông.
Bà cụ gửi chị tất cả. Đó là cái vải liệm của bà, những cái túi bọc bàn chân bàn
tay cho bà khi bà chết. Chị nhìn bà, mãi mới nói được một câu:
- Bà ơi. Bà cẩn thận thế hở bà.
- Chẳng biết ông giời còn để sống bao lâu nữa cô ạ. Đi qua chỗ
người ta đang xây nhà. Vỏ bao xi-măng nhiều quá. Nói khó mãi, người ta thương,
cho hai bao. Thế là mới nghĩ đến túi ni-lông. Cứ chuẩn bị trước đi là vừa cô ạ.
Ngộ nhỡ đùng một cái, ông giời ông ấy bắt mình đi, các cháu cô còn dại lắm,
chúng nó biết xoay xở làm sao. Cái chiếu cũng không biết mua đâu. Chẳng lẽ lại
lấy chiếu nằm của chúng nó. Với lại giấy xi-măng này tốt hơn chiếu đấy cô ạ.
Định xin mấy cái bao dứa nhưng người ta không cho. Mua thì không có tiền. Bao
giấy cũng tốt chán.
Chị thẫn thờ nhìn theo bà cụ ăn mày đi trong gió bấc hun hút mà
thấy thương cho mình, thương cho bà, thương cho những kiếp người khổ cho đến lúc
chết. Rồi lại nghĩ đến mẹ. Dù sao mẹ chị cũng còn sung sướng hơn bà Mít. Mẹ chị
còn có mấy tấm gỗ cốp pha, mấy mét diềm bâu. Có lẽ chị cũng phải kiếm mấy cái
túi ni-lông phòng xa như bà Mít!
Mùa rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm.
Khách đến nhà cũng ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc
mả. Trong khi hiếu, hỷ, người ta rộng rãi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng
tới chỗ chị để cho chị hòn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít
tiền. Chị bảo bà đã gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo
chúng nó mong, đã lâu rồi bà chưa về nhưng bà Mít nói: "Tôi cố thêm ít ngày nữa.
Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới ra. Bà cháu xa nhau lâu
quá rồi. Lại còn phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới mặc Tết".
Chị Sợi kiểm kê số tiền bà Mít gửi trong những đợt ấy. Chị khoe
với anh què hôm anh đến với chị:
- Xem em nhiều tiền không này!
Anh què bảo:
- Lần cuối bà ấy đến gửi là cách nửa tháng rồi à? Thế thì bà ấy
sắp quay lại đấy.
Chị cũng nghĩ vậy. Mỗi lần bà Mít gửi tiền cách nhau khoảng chục
ngày. Chỉ ngày một ngày hai, bà sẽ về cầm chỗ tiền này cùng với số tiền bà mới
xin được đem về quê nuôi cháu. Cả hai cùng mừng cho bà. Họ hình dung ra hai đứa
cháu bà vui sướng như thế nào khi bà về, chìa ra cho mỗi đứa một bộ quần áo mới.
Họ cũng mong bà xin được nhiều và sớm về đây lấy chỗ tiền bà gửi, bởi vì những
đợt gió bấc giá lạnh thỉnh thoảng điểm mưa phùn tê cóng khiến chị Sợi cũng thấy
buốt cả đầu óc và phải nghỉ bán hàng.
Nhưng cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng
có chuyện chẳng lành nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ còng còng của bà
trong tấm ni-lông vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như
vậy. Lo lắng. Hy vọng. Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đã chết ở đâu rồi!
Chị Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những
tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị
không chờ bà Mít nữa. Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:
- Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. Ở đây trông nom, cơm
nước, rửa ráy cho mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.
- Em biết quê bà ở đâu mà tìm?
- Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi tòa
án.
Phải đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện
nguyện ước của bà cụ, kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó.
Buổi sáng hôm ra đi, từ biệt mẹ, từ biệt anh què, bước tới cửa
chị sững lại: một dẫy xe máy sáng loáng dựng ở đầu hẻm, một đám người đi ủng
đang cầm thước, cầm dây, lội vào khu nhà xí ngập ngụa đo và ghi chép. Tim chị
thắt lại vì lo. Đúng là người ta sắp xây nhà tầng ở trước cửa nhà chị! Nhưng chị
không có thời gian dừng lại. Phải đi ngay kẻo lỡ mất chuyến tàu...
ОГЛАВЛЕНИЕ